Thiết kế SMS Blücher

Bối cảnh

Tàu tuần dương bọc thép Đức, vốn được đặt tên Große Kreuzer (tàu tuần dương lớn), được thiết kế cho nhiều vai trò, bao gồm đối đầu với lực lượng trinh sát đối phương cũng như chiến đấu trong hàng chiến trận.[2] Chiếc tàu tuần dương bọc thép cũ nhất Fürst Bismarck được chế tạo một cách vội vã để được bố trí đến Trung Quốc hỗ trợ cho việc dập tắt cuộc Nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900. Các tàu tuần dương bọc thép tiếp theo, ngoại trừ hai chiếc lớp Scharnhorst, đã phục vụ cùng hạm đội trong lực lượng trinh sát.[3]

Vào ngày 26 tháng 5 năm 1906, Quốc hội Đức (Reichstag) thông qua ngân sách chế tạo Blücher cùng với hai thiết giáp hạm lớp Nassau. Cho dù con tàu lớn hơn và mạnh mẽ hơn đáng kể so với mọi tàu tuần dương bọc thép trước đó, Blücher vẫn giữ lại tên gọi này nhằm che giấu bản chất sức mạnh của nó.[4] Con tàu được đặt hàng dưới cái tên tạm thời "E"; thiết kế của nó bị ảnh hưởng bởi yêu cầu bắt kịp những tàu tuần dương bọc thép Anh mà người ta biết đang được chế tạo. Người Đức dự đoán các tàu chiến mới của Anh sẽ trang bị sáu hoặc tám pháo 9,2 in (23 cm);[5] do đó Hải quân Đức chấp thuận một thiết kế bao gồm mười hai khẩu 21 cm (8,3 in) trên sáu tháp pháo nòng đôi, mạnh hơn đáng kể so với lớp tàu tuần dương bọc thép Scharnhorst của Đức trước đó vốn chỉ có tám khẩu pháo 21 cm.[6]

Một tuần sau khi có quyết định sau cùng cho phép chế tạo Blücher, Tùy viên Hải quân sứ quán Đức tại Anh có được đặc tính chi tiết các con tàu mới của Anh, vốn được đặt tên là lớp Invincible. Trong thực tế HMS Invincible mang tám khẩu pháo 30,5 cm (12,0 in), cùng loại với kiểu được trang bị trên những thiết giáp hạm đương thời. Người ta nhanh chóng nhận ra đây là một kiểu tàu chiến hoàn toàn mới, mà cuối cùng sẽ được xếp loại như những tàu chiến-tuần dương. Khi chi tiết của lớp Invincible được bộc lộ, đã quá trễ để có thể thiết kế lại Blücher, và cũng không có kinh phí cho việc tái thiết kế, nên công việc vẫn tiến hành theo kế hoạch.[7] Blücher bị tranh luận là đã lạc hậu ngay cả trước khi việc chế tạo bắt đầu, và nhanh chóng bị các tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức vượt hơn, bắt đầu với chiếc Von der Tann được đặt hàng vào năm 1907.[8] Cho dù vậy, Blücher vẫn thường được bố trí hoạt động cùng với hải đội tàu chiến-tuần dương Đức.[5][Ghi chú 2] Con tàu gây tốn kém cho Chính phủ Đức tổng cộng 28.532.000 Mác vàng Đức.[9]

Các đặc tính chung

Blücher có chiều dài ở mực nước là 161,1 m (528 ft 7 in) và chiều dài chung là 161,8 m (530 ft 10 in); mạn thuyền rộng 24,5 m (80 ft 5 in), và khi lưới chống ngư lôi được gắn dọc bên lườn tàu mạn thuyền sẽ tăng lên 25,62 m (84 ft 1 in). Con tàu có mớn nước 8,84 m (29 ft 0 in) phía trước mũi, nhưng kém hơn đôi chút 8,56 m (28 ft 1 in) phía đuôi. Con tàu có trọng lượng choán nước thiết kế 15.842 t (15.592 tấn Anh), và tối đa 17.500 t (17.200 tấn Anh) khi đầy tải. Lườn tàu được cấu trúc bởi các khung thép ngang và dọc, con tàu có tổng cộng 13 ngăn kín nước và một đáy kép chiếm khoảng 65% chiều dài lườn tàu.[9]

Tài liệu lưu trữ của Hải quân Đức cho thấy sự hài lòng đối với con tàu do độ linh hoạt ngoài biển. Tuy nhiên, nó bị ảnh hưởng chòng chành nặng, và khi bẻ lái gắt nó nghiêng cho đến 10° và bị mất cho đến 55% tốc độ. Chiều cao khuynh tâm của Blücher là 1,63 m (5 ft 4 in). Thủy thủ đoàn đầy đủ của nó bao gồm 41 sĩ quan và 812 thủy thủ, với thêm 14 sĩ quan và 62 thủy thủ nếu hoạt động như soái hạm của hải đội. Nó mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm hai xuồng gác, ba xuồng chỉ huy, hai xuồng đổ bộ, hai xuồng yawl và một xuồng nhỏ.[9]

Hệ thống động lực

Blücher trang bị ba động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc 4 xy lanh, mỗi động cơ nối với một trục chân vịt, và một bánh lái. Chân vịt giữa có đường kính 5,3 m (17 ft 5 in) trong khi hai chân vịt phía ngoài hơi lớn hơn với đường kinh 5,6 m (18 ft 4 in). Các động cơ được bố trí trong các phòng động cơ riêng biệt, mỗi phòng còn có 6 nồi hơi kép kiểu hàng hải lên đến tổng cộng 18 nồi hơi đốt than. Con tàu có tốc độ thiết kế tối đa 24,5 kn (45,4 km/h), nhưng nó đã đạt đến 25,4 kn (47,0 km/h) khi chạy thử máy. Ở tốc độ đi đường trường 12 kn (22 km/h), Blücher có thể đi được 6.600 nmi (12.200 km; 7.600 dặm); nhưng với tốc độ 18 kn (33 km/h) tầm hoạt động bị giảm đáng kể chỉ còn 3.250 nmi (6.020 km; 3.740 dặm). Con tàu được thiết kế để chở theo 900 t (890 tấn Anh) than, nhưng những khoảng trống trong lườn tàu có thể tận dụng để chứa cho đến 2.510 t (2.470 tấn Anh). Điện năng được cung cấp từ sáu máy phát turbine công suất cho đến 1.000 KW ở điện thế 225 volt.[9] Kỷ lục về công suất lớn nhất mà một hệ thống động cơ hơi nước chuyển động qua lại từng đạt được trên một tàu chiến là của Blücher, đạt đến 43.886 ihp (32.726 kW) khi nó chạy thử máy vào năm 1909.[10]

Vũ khí

Blücher được trang bị mười hai khẩu pháo 21 cm (8,3 in) SK L/45[Ghi chú 3] bắn nhanh trên sáu tháp pháo nòng đôi, gồm một cặp phía trước mũi và một cặp phía đuôi tàu, cùng hai tháp pháo mạn hai bên cấu trúc thượng tầng. Các khẩu pháo được cung cấp tổng cộng 1.020 quả đạn pháo, tức 85 quả cho mỗi khẩu pháo;[9] mỗi quả đạn nặng 108 kg (238 lb) và có chiều dài 61 cm (24 in).[11] Các khẩu pháo có thể hạ cho đến góc −5° và nâng tối đa cho đến góc 30°, cho phép có tầm xa tối đa 19.100 m (20.900 yd).[9] Tốc độ bắn của chúng là 4 đến 5 phát mỗi phút.[11][12]

Con tàu còn có một dàn pháo hạng hai bao gồm tám khẩu 15 cm (5,9 in) SK L/45 bắn nhanh bố trí trong các tháp pháo ụ kiểu MPL C/06;[13][14] phân bố hai bên mạn tàu phía giữa tàu.[9] Các khẩu pháo này có thể đối đầu mục tiêu ở cách xa 13.500 m (14.800 yd).[12] Chúng được cung cấp tổng cộng 1.320 quả đạn pháo, tức 165 quả đạn cho mỗi khẩu pháo, và có thể duy trì một tốc độ bắn từ 5 đến 7 phát mỗi phút.[13] Đạn pháo này nặng 45,3 kg (99,9 lb)[14] và được nạp liều thuốc phóng RPC/12 nặng 13,7 kg (30,2 lb) chứa trong vỏ đồng.[13] Khẩu pháo bắn ra với lưu tốc đầu đạn 835 m/s (2.740 ft/s),[12] và được kỳ vọng sẽ bắn được khoảng 1.400 phát trước khi cần phải thay nòng.[13]

Blücher còn được trang bị mười sáu khẩu pháo 8,8 cm (3,46 in) SK L/45 bắn nhanh, được bố trí cả trong tháp pháo ụ lẫn trên các trục xoay; bốn tháp pháo ụ được đặt gần cầu tàu, bốn khẩu phía mũi và bốn khẩu phía đuôi, trong khi bốn khẩu đặt trên trục xoay được bố trí trên cấu trúc thượng tầng phía Chúng được cung cấp tổng cộng 3.200 quả đạn pháo, tức 200 quả cho mỗi khẩu,[9] và có thể bắn ở tốc độ 15 phát mỗi phút. Đạn pháo nổ mạnh (HE) của chúng nặng 10 kg (22 lb),[14] và được nạp liều thuốc phóng RPC/12 nặng 3 kg (6,6 lb), đạt được tầm bắn xa tối đa 10.700 m (11.700 yd).[14] Các khẩu pháo này có tuổi thọ nòng pháo được hy vọng khoảng 7.000 phát.[15]

Blücher còn được trang bị bốn ống phóng ngư lôi 45 cm (18 in), gồm một trước mũi, một phía đuôi và một mỗi bên mạn giữa tàu, tất cả đều được đặt trên mặt nước. Con tàu mang theo tổng cộng 11 quả ngư lôi.[9] Kiểu vũ khí này mang một đầu đạn nặng 110 kg (240 lb) và có thể cài đặt ở hai mức tốc độ vốn sẽ ảnh hưởng đến tầm xa; ở tốc độ 32 kn (59 km/h) chúng có tầm xa tối đa 2.000 m (2.200 yd), và ở tốc độ 36 kn (67 km/h) tầm xa tối đa giảm còn 1.500 m (1.600 yd).[14]

Vỏ giáp

Giống như mọi tàu chiến chủ lực Đức vào thời đó, Blücher được trang bị thép giáp Krupp. Sàn tàu bọc thép dày 5–7 cm (2,0–2,8 in), các phần trọng yếu của con tàu được bảo vệ bằng lớp thép dày hơn, còn những phần ít quan trọng của sàn tàu có lớp thép mỏng hơn.[9] Đai giáp dày đến 18 cm (7,1 in) ở phần giữa con tàu nơi động cơ, các hầm đạn và các phần quan trọng khác được bố trí, và vuốt mỏng còn 8 cm (3,1 in) ở các phần còn lại, nhưng không kéo dài đến tận mũi và đuôi tàu. Phía sau suốt chiều dài của đai giáp là một lớp lót bổ sung bằng gỗ teak dày 3 cm (1,2 in). Đai giáp còn được tăng cường bởi một vách ngăn chống ngư lôi dày 3,5 cm (1,4 in)[9] cho dù chỉ kéo dài từ ngang tháp pháo mũi đến ngang tháp pháo đuôi.[16]

Tháp chỉ huy phía trước là phần được bảo vệ mạnh nhất của con tàu: các mặt hông của nó có vỏ giáp dày 25 cm (9,8 in) và nóc dày 8 cm (3,1 in). Tháp chỉ huy phía sau được bảo vệ kém hơn với nóc dày 3 cm (1,2 in) và các mặt hông dày 14 cm (5,5 in). Vùng thành trì trung tâm của con tàu có vỏ giáp dày 16 cm (6,3 in); các tháp pháo của dàn pháo chính có nóc dày 8 cm (3,1 in) và các mặt bên dày 18 cm (7,1 in), trong khi các tháp pháo ụ có vỏ giáp dày 14 cm (5,5 in).[9]